Đây là các lĩnh vực được tỉnh Phú Thọ triển khai thực hiện theo Nghị quyết số 74-NQ/TU về chính sách hỗ trợ, khuyến khích phát triển nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn tỉnh Phú Thọ vừa được Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Phú Thọ ban hành ngày 27/6/2019. Cụ thể, hỗ trợ sản xuất gắn với xây dựng thương hiệu chè xanh Phú Thọ. Theo Nghị quyết, cây chè được xác định là cây trồng chủ lực của tỉnh; tuy nhiên, sản phẩm chủ yếu là chè đen bán thành phẩm, việc hỗ trợ nhằm thực hiện cơ cấu lại sản xuất, chế biến gắn với xây dựng thương hiệu chè xanh Phú Thọ, góp phần nâng cao giá trị của sản phẩm chè. Điều kiện hỗ trợ phải có vùng nguyên liệu trên địa bàn tỉnh, đáp ứng sản xuất, chế biến chè xanh; có dự án sản xuất, chế biến gắn với thương hiệu chè xanh; có công suất 50 tấn chè búp tươi/năm trở lên và được UBND tỉnh phê duyệt. Nội dung hỗ trợ gồm chi phí nâng cao chất lượng vùng nguyên liệu; cải tiến công nghệ sản xuất, chế biến; xây dựng, phát triển nhãn hiệu và xúc tiến thương mại.
Lĩnh vực thứ hai là hỗ trợ phát triển cây bưởi. Với lĩnh vực này, Nghị quyết nêu rõ, cây bưởi được xác định là một trong những cây trồng chủ lực của tỉnh; việc hỗ trợ để thực hiện cơ cấu lại sản xuất, mở rộng diện tích theo mục tiêu quy hoạch đảm bảo 5.500ha. Điều kiện hỗ trợ là có diện tích trồng tập trung từ 5ha trở lên đối với doanh nghiệp, hợp tác xã; từ 3ha trở lên đối với tổ hợp tác; từ 1ha trở lên đối với trang trại. Nội dung hỗ trợ đối với cây này là hỗ trợ chi phí mua cây giống phục vụ trồng mới gắn với áp dụng quy trình thực hành sản xuất nông nghiệp tốt (GAP). Hỗ trợ chi phí thực hiện quy trình thực hành sản xuất nông nghiệp GAP cho bưởi thời kỳ kinh doanh được cơ quan chuyên môn cấp tỉnh có chức năng thẩm định, xác định.
Việc hỗ trợ phát triển cây chè nhằm thực hiện cơ cấu lại sản xuất, chế biến gắn với xây dựng thương hiệu chè xanh Phú Thọ.
Lĩnh vực thứ ba là hỗ trợ phát triển rừng sản xuất. Với mục tiêu phát triển lâm nghiệp bền vững, phát huy hiệu quả kinh tế đồi rừng và đạt mục tiêu quy hoạch đã đề ra; trong thời gian tới, tập trung hỗ trợ phát triển rừng sản xuất gỗ lớn, quản lý rừng trồng trên cơ sở xác định rõ chủng loại cậy, thời gian, chu kỳ sản xuất của cây đó được cấp có thẩm quyền xem xét, quy định trong từng thời kỳ. Cụ thể, đối với hỗ trợ chuyển hoá rừng cây gỗ lớn thì điều kiện hỗ trợ là rừng đưa vào chuyển hoá đảm bảo đủ điều kiện theo quy định; có quy mô tập trung từ 10ha trở lên đối với hợp tác xã, từ 5ha trở lên đối với tổ hợp tác, từ 3ha trở lên đối với trang trại, hộ gia đình; có cam kết với UBND cấp xã, hạt kiểm lâm khai thác tối thiểu sau 10 năm tuổi. Ở nội dung này được hỗ trợ lần 1 khi rừng đạt từ 7 tuổi trở lên và đã thực hiện các biện pháp kỹ thuật chuyển hoá gỗ lớn; hỗ trợ lần 2 tối thiểu sau 3 năm thực hiện hỗ trợ lần 1, tùy chủng loại cây theo quy định.
Đối với hỗ trợ cấp chứng chỉ rừng bền vững (FSC), điều kiện hỗ trợ là rừng sản xuất có quy mô tối thiểu 100ha trở lên; sau khi được cấp giấy chứng nhận và được hỗ trợ 1 lần chi phí cấp chứng chỉ.
Lĩnh vực thứ tư là hỗ trợ khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp. Ở lĩnh vực này, việc hỗ trợ nhằm tiếp tục đổi mới phương thức sản xuất, thúc đẩy sản xuất liên kết theo chuỗi giá trị, gắn sản xuất với tiêu thụ sản phẩm, triển khai, thực hiện các nội dung theo quy định tại Nghị định số 98/2018/NĐ-CP ngày 5/7/2018 của Chính phủ về chính sách khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp. Do đó, điều kiện, nội dung hỗ trợ gồm: Có dự án hợp tác, liên kết sản xuất gắn với tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp theo quy định tại Nghị định số 98/2018/NĐ-CP; nội dung hỗ trợ cụ thể theo từng dự án được cấp có thẩm quyền phê duyệt.
Lĩnh vực thứ năm là hỗ trợ đặc thù khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn. Về lĩnh vực này, Nghị quyết nhấn mạnh, tập trung đẩy mạnh công tác thu hút doanh nghiệp đầu tư vào phát triển nông nghiệp, nông thôn, hình thành và phát triển được một số vùng sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao; đồng thời nhằm cụ thể hoá các nội dung tại Nghị định số 57/2018/NĐ-CP ngày 17/4/2018 của Chính phủ về cơ chế, chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn. Lĩnh vực này được hỗ trợ một phần kinh phí đầu tư hoặc cấp bù chênh lệch lãi xuất theo các chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn theo quy định tại Nghị định số 57/2018/NĐ-CP.
Nguồn vốn hỗ trợ từ ngân sách Trung ương, ngân sách cấp tỉnh, ngân sách cấp huyện và các nguồn hợp pháp khác. Dự kiến kinh phí từ ngân sách cấp tỉnh không quá 60 tỷ đồng/năm; yêu cầu sử dụng kinh phí đảm bảo hiệu quả, tiết kiệm, đúng mục đích.
Về tổ chức thực hiện, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Phú Thọ yêu cầu các cấp uỷ Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị-xã hội căn cứ Nghị quyết này nghiêm túc triển khai thực hiện./.